Áo dài luôn được xem là loại trang phục thể hiện niềm tự hào dân tộc Việt Nam. Các cụ ngày xưa đã dành nhiều tâm huyết để nghiên cứu các cách kết hợp nguyên tắc thẩm mỹ cùng quy luật kín đáo cố hữu của dân tộc vào việc may mặc. Nhận thấy rằng cổ của người Việt không được cao, người xưa đã may cổ áo thấp xuống và ôm sát cổ, kết hợp với việc vấn tóc lên cao. Điều này giúp phụ nữ Việt Nam trông cao ráo, thanh tú và duyên dáng hơn dù có chiều cao trung bình.
Người Việt Nam xưa đặt tên cho áo dài là Tập phục, có nghĩa là loại áo có nhiều lớp, nôm na là áo mớ ba, mớ bảy. Và trong những lớp áo mớ ba, mớ bảy đó, lớp ngoài cùng lại được gọi là áo lót, bởi thật ra nó chỉ là lớp lót trong của áo bào, với lớp xiêm độn ở giữa. Trong cuốn sách "Tây hành nhật ký" của Phạm Phú Thứ có viết về việc các cụ sứ thần nước ta khoác “áo lót” (Tập phục) ra đón tiếp quan khách ngoại giao của các nước đến viếng thăm, người nào không hiểu về trang phục cổ lại cho rằng các cụ ngày xưa khiếm nhã.
Lịch sử áo dài Việt Nam: Áo dài tứ thân và áo dài năm thân
Từ xưa đến nay có hai loại áo dài luôn đi song song với nhau là áo dài tứ thân và áo dài năm thân.
Áo dài tứ thân
Áo dài tứ thân bao gồm hai vạt áo trước mở dọc thẳng từ cổ cho tới gấu. Cổ áo tứ thân rất thấp, gần như là không có. Áo tứ thân đã xuất hiện từ thời Hán của Trung Quốc và bắt đầu phổ biến vào thời Đường. Nó còn được biết tới như áo chẽn tay khoác ngoài cùng với tay ngắn hoặc dài; được gọi là đoản tụ hay trường tụ tỷ giáp. Cách đây gần nửa thế kỷ trước, áo dài tứ thân vẫn là loại trang phục được phụ nữ vùng thôn quê Bắc bộ mặc hàng ngày. Các sư sãi của Phật giáo Việt Nam hiện vẫn mặc loại áo tứ thân với cổ nhật bình này.
Áo dài năm thân
Áo năm thân là loại áo dài có cổ xây (cổ đứng) cài nút sang bên phải giống như chiếc áo dài ngày nay. Không ai biết được chính xác rằng áo dài năm thân của Việt Nam xuất hiện từ bao giờ. Tuy nhiên, pho tượng Ngọc nữ từ thế kỷ 17 (hiện đặt tại chùa Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh) cho thấy ít nhất tại thời điểm đó, phụ nữ Việt Nam cũng đã mặc kiểu áo dài có hình dáng của áo dài năm thân (mà sau thành ba thân, rồi tới ngày nay là hai thân).
Trong các sách viết về lịch sử trang phục Việt Nam, có một vài chi tiết nói tới áo dài. Có những người đặt ra giả thuyết rằng áo dài vốn xuất phát từ phương Bắc. Năm 1744, Chúa Nguyễn Phúc Khoát lên ngôi vua ở Đàng Trong và đã bắt quan dân Thuận Quảng mặc lễ phục lấy mẫu từ sách "Tam tài đồ hội" của nhà Minh, Trung Quốc.
Mặc dù phải chịu triều cống cho nhà Thanh nhưng người Việt vẫn luôn coi người Mãn Châu là di địch chứ không phải Hán tộc chính thống. Bởi vậy, lễ phục của các triều đại Lê, Nguyễn của Việt Nam vẫn làm theo mẫu trang phục Hán tộc của triều Minh, Trung Quốc.
Áo dài có được coi là lễ phục không?
Áo dài chỉ được xem là một loại thường phục trang trọng có thể mặc để đón tiếp khách hoặc đi ra đường. Còn vào những dịp lễ lớn, người Việt xưa phải khoác một cái áo rộng (phổ phục) như áo tấc, áo dấu, áo tràng ngoài dân gian; hoặc áo bào, áo mệnh phụ trong triều. Đây chính là những lễ phục mang những nét ảnh hưởng của phương Bắc.
Trong khi đó, "Trung Quốc phục trang sử" - cuốn sách nổi tiếng viết và minh họa về y phục của Trung Hoa từ đời Xuân Thu cho tới những năm đầu Dân Quốc (năm 477 trước Công Nguyên - thập kỷ 1920 sau Công Nguyên) - lại không hề nhắc tới bì bào, tức loại phục trang ôm sát cơ thể giống áo dài Việt nam.
Loại bì bào duy nhất có cổ cao, cài nút bên phải dành cho phụ nữ ở Trung Quốc chỉ bắt đầu xuất hiện tại vùng Trùng Khánh và Thượng Hải vào những năm 1920. Ngày nay người ta thường gọi nó là trường sam (hay tiếng Quảng Đông còn gọi là xường xám), có nghĩa là áo dài. Xường xám trở nên phổ biến và nổi tiếng hơn là nhờ bà Tống Mỹ Linh - vợ của Thống chế Tưởng Giới Thạch.
Một số chuyên gia giới thời trang Âu - Mỹ cho rằng xường xám của Trung Quốc là một phiên bản không thành công của áo dài Việt Nam. Cũng phải nói thêm rằng phụ nữ của một số dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc Việt Nam cũng mặc loại trang phục tương tự áo dài ở dưới đồng bằng, tuy nhiên những người cùng dân tộc ấy sinh sống ở các nước xung quanh lại không hề mặc kiểu áo như này.
Năm 1776, sau khi chúa Trịnh ở Đàng Ngoài chiếm được kinh đô Phú Xuân của Đàng Trong, quan Hiệp trấn thủ Lê Quý Đôn của nhà Trịnh đã ra lệnh cho dân chúng thay đổi lề lối ăn mặc theo tục lệ cũ (tức là phải giống như trang phục của Đàng Ngoài lúc bấy giờ, hay cũng như là ở Đàng Trong trước 1744). Với lệnh này, đàn ông và đàn bà chỉ được phép mặc loại áo cổ đứng và ngắn tay, tức là áo chỉ dài tới cổ tay thay vì dài gấp đôi chiều dài cánh tay như trong lễ phục.
Áo dài vào thế kỷ XVII
Cristoforo Borri - giáo sĩ người Ý sống tại vùng Thuận Hóa và Quảng Nam của Đàng Trong từ năm 1618 đến năm 1623 - đã miêu tả cách ăn mặc của người Việt vào đầu thế kỷ 17 trong cuốn sách của mình như sau: “Người ta mặc năm, sáu cái áo dài, áo nọ phủ lên áo kia, mỗi cái một màu. Cái thứ nhất dài đến mắt cá chân một cách trang trọng. Rồi những áo khác bên ngoài ngắn dần”.
Có lẽ vị giáo sĩ này muốn nói tới kiểu mặc áo mớ ba, mớ bảy của phụ nữ Việt Nam. Hiện kiểu trang phục này vẫn còn thấy được ở Bắc Ninh hay Bắc Giang, và lác đác ở Huế cách đây khoảng nửa thế kỷ.
Ông cũng chia sẻ thêm: “Đàn ông cũng mặc năm, sáu lớp áo dài lụa. Phần dưới thắt lưng của mấy lớp áo ngoài được cắt thành những dải dài. Khi đi lại, các dải này quyện vào nhau trông rất đẹp mắt. Mỗi khi có làn gió thổi thì các dải đó lại bay tung lên như cánh chim công thật ngoạn mục… Đàn ông Việt thời đó cũng để tóc dài và vấn khăn như đàn bà”.
Những lớp áo phía ngoài bị cắt thành nhiều dải bên dưới thắt lưng gọi là cái xiêm cánh sen, hoặc cánh xiêm nghê thường. Có vùng còn gọi nó là quầy bơi chèo, mà người xưa mặc ở trước ngực hay bên dưới thắt lưng bên ngoài áo dài. Người Huế lại đặt tên cho nó là áo lá tua. Xiêm này có ba hoặc bốn lớp dải lụa được may nằm chồng lên nhau. Lớp dải trong cùng dài nhất, các lớp bên ngoài ngắn dần. Ngày nay, các dài lụa được đơn giản hóa bằng cách may thưa và nhỏ hơn, ba bốn lớp với nhau được dính liền.
Người Việt Nam vẫn thi thoảng nhìn thấy loại trang phục này mỗi dịp rước đình tại những vùng quê miền Bắc, miền Trung Việt Nam, và trong phục trang múa cung đình tại Huế. Bức tượng Ngọc nữ của thế kỷ 17 ở chùa Dâu là minh chứng rõ ràng nhất cho loại áo dài có các dải lụa cánh sen và cách vấn khăn mà giáo sĩ Borri miêu tả từ bốn thế kỷ trước. Chiếc áo dài và cách vấn khăn mà ta nhìn thấy trên bức tượng của thời ấy cũng không khác gì bây giờ là bao.
Vị giáo sĩ người Ý cũng đề cập rằng chiếc áo màu sậm của phái nam và sĩ tử lúc ấy khá tương tự như áo ngoài của các giáo sĩ Công giáo thời bấy giờ, cũng có nghĩa là giống áo dài năm thân của những năm về sau. Đầu thế kỷ 17, phần đông đàn ông Việt Nam, đặc biệt là các sĩ tử đều mặc một chiếc áo dài lụa màu đen phủ ra ngoài các áo khác.
Năm 1819, khi thuyền trưởng Mỹ John White ghé thăm Sài Gòn, cách ăn mặc ở đây vẫn giống như những gì mà giáo sĩ Borri đã quan sát được ở Thuận Quảng từ hơn hai thế kỷ trước. Ông White có nhắc tới một thiếu nữ 16 tuổi mặc quần lụa đen và áo may sát người dài đến mắt cá chân.
Ông cũng nói thêm rằng phụ nữ và đàn ông Sài Gòn lúc bấy giờ ăn mặc rất giống nhau, với nhiều lớp áo dài khác nhau, lớp trong cùng dài nhất rồi ngắn dần ở các lớp áo ngoài. Tuy nhiên, lối ăn mặc kể trên chỉ dành cho tầng lớp thượng lưu. Còn trang phục của đại đa số người dân thì lại trang nghiêm hơn với tông màu sậm.
Áo dài vào thế kỷ XX
Tới thế kỷ 20, phần lớn phụ nữ thành thị Việt Nam đều mặc áo dài theo kiểu năm thân, năm tà. Thân áo trước và sau đều có hai tà được may dọc theo sống áo. Tà thứ năm nằm ở thân trước bên phải. Tay áo được may nối ở phía dưới khuỷu tay bởi vì ngày xưa, các loại vải tốt như lụa, sa, gấm, đoạn… chỉ dệt được rộng nhất là 40cm.
Vào thời ấy, cổ, tay và thân trên của áo dài dành cho phụ nữ thường ôm lấy cơ thể, tà áo từ sườn đến gấu được may rộng ra và không chiết eo. Vạt áo rất rộng, trung bình là 80cm ở gấu áo. Gấu vạt trước được cắt dài hơn vạt sau, và được may võng để giúp cho phần giữa gấu trông không bị thụng và ngực áo có thể kéo vòng lên khi mặc. Cổ áo của phái nữ cao khoảng 2cm, trong khi cổ áo của phái nam thì khoảng 3 đến 4cm.
Riêng phụ nữ ở Huế lại vẫn giữ cổ áo cao 3cm. Trong những năm 1910 - 1920, áo dài của phụ nữ miền Bắc thường được may thêm một cái khuyết phụ khoảng 3cm phía bên phải cổ áo và cài khuy cổ lệch. Cổ áo lệch sẽ hở ra, đem tới vẻ quyến rũ hơn, và đó cũng là cách phụ nữ thời đó khoe những chuỗi hạt trang sức quấn nhiều vòng quanh cổ.
Cũng vào thời gian này, các loại vải màu sậm được ưa chuộng nhất. Người ta thường sử dụng vải gấm để may áo dài cho mùa Thu, Đông, và sa, vân cho mùa Xuân, Hạ. Các loại vải ngày xưa được nhuộm màu bằng nguyên liệu thiên nhiên nên dễ phai, bởi vậy người ta thường không giặt các loại áo dài được may bằng vải đắt tiền. Những chiếc áo như thế thường được sử dụng làm áo khoác ngoài, một năm được phơi vài lần dưới nắng rồi được ướp hương thơm bằng trầm hay hương bài trong tráp gỗ.
Phần lớn áo dài của ngày xưa được may kép, hay có nghĩa là may dính liền một lớp vải lót ở phía trong, đặc biệt là đối với những loại vải mỏng thì rất cần vải lót để đảm bảo độ kín đáo. Áo kép này được khoác lên áo dài thứ hai lót bên trong. Lớp áo lót bên trong sẽ thấm nhiều mồ hôi, vì thế nó được may bằng vải trắng để không lo bị phai màu và dễ giặt. Hai lớp áo dài mặc với cái áo cánh ở trong cùng sẽ tạo thành một bộ áo mớ ba.
Quần mặc kèm với áo dài được may rộng vừa phải, khoảng hơn 30cm với phần đũng thấp. Lúc bấy giờ, đa số phụ nữ từ Bắc vào Nam đều mặc quần đen kết hợp với áo dài, trong khi phụ nữ ở Huế lại thích mặc quần trắng. Đặc biệt là giới thượng lưu ở Huế, cả đàn ông lẫn phụ nữ, hay mặc loại quần chít ba - loại quần mà dọc hai bên mép ngoài được may với ba lần gấp, để khi đi lại quần sẽ xòe rộng thêm.
Áo dài vào thập niên 1930, 1940
Thời điểm này, cách may áo dài vẫn không có gì thay đổi nhiều so với những thập niên trước đây. Phụ nữ chốn đô thành bắt đầu sử dụng những loại vải có màu tươi sáng hơn được nhập từ châu Âu. Gấu áo dài nữ cũng được may trên mắt cá chân khoảng 20cm. Trong khi đó áo dài của nam giới vẫn không thay đổi với vạt áo không dài quá đầu gối 10cm.
Gần cuối thế kỷ 20, các thiếu nữ trên khắp cả nước mặc quần trắng với áo dài, còn quần đen thì dành cho phụ nữ đã lập gia đình. Tuy nhiên, phần đông phụ nữ thuộc mọi lứa tuổi ở Huế vẫn mặc quần trắng.
Giai đoạn này cũng bắt đầu xuất hiện một số nhà tạo mẫu áo dài, nhưng họ gần như chỉ bỏ được phần nối giữa sống áo bởi vải phương Tây dệt khổ rộng hơn. Phần tay áo vẫn phải may nối.
Các họa sỹ Lê Phổ và Lê Thị Lựu là những người tiên phong trong việc bỏ sống nối dọc giữa thân áo, thu gọn bớt chiều rộng của vạt áo và tay áo. Áo dài ba thân bắt đầu từ đây. Nổi tiếng nhất lúc đó là khi hoạ sỹ Cát Tường cho ra mắt kiểu áo dài Âu hoá vào cuối thập niên 1930. Đó chính là áo dài Le Mur (do hoạ sỹ Cát Tường dịch tên mình ra tiếng Pháp).
Áo dài Le Mur giữ nguyên phần áo dài may không nối sống bên dưới. Tuy nhiên cổ áo được thiết kế hình trái tim với mũi nhọn đằng trước ngực hoặc sau lưng, kết hợp thêm một cái nơ ở phần khoét nhọn đó. Đôi khi áo được gắn thêm cổ bẻ. Vai áo Le Mur được may phồng, tay áo nối nối ở vai. Có một số thiết kế áo Le Mur khoét hở đến giữa lưng và không có tay. Khuy áo được may dọc trên vai và sườn phải.
Hoạ sỹ Cát Tưởng đã cổ xuý việc loại bỏ cái cổ xây của áo dài trong một bài báo đăng trên báo Phong Hoá vào năm 1938. Ông cho rằng cổ áo dài quá nhỏ để có thể che dấu theo phong tục xưa, thêm vào đó nó còn khá vướng víu. Bởi vậy lúc đó áo dài Le Mur được xem là thiết kế táo bạo mà chỉ giới thời thượng mới dám mặc. Và cũng chính nhờ những tranh cãi mà hoạ sỹ Cát Tường cùng áo dài Le Mur đã gây nên tiếng vang lớn. Nhưng tới khoảng năm 1945 - 1947, Le Mur dần đi vào "thất sủng".
Áo dài từ thập niên 1950 tới nay
Vào những năm 1950, sườn áo dài đã được may có eo dù vẫn không xếp li. Các thợ may lúc bấy giờ đã khéo léo cắt áo lượn theo thân người. Thân áo sau được cắt hơi rộng hơn thân áo trước, đặc biệt là ở phần mông để áo ôm lấy cơ thể mà không cần phải chiết li ở eo. Vạt áo cũng được cắt hẹp hơn. Thân áo trong (hay còn gọi là thân áo thứ ba hoặc vạt hò) được cắt ngắn dần từ thời điểm ấy. Cổ áo bắt đầu cao lên, trái ngược là gấu được hạ thấp xuống. Vào lúc này cho tới thập niên 1960, tà áo dài phải ôm và không hở quần thì mới được xem là cắt may khéo.
Những năm 1960 là lúc áo dài có nhiều thay đổi nhất. Lúc đó nịt ngực ngày càng phổ biến nên áo dài được may chiết eo để tôn lên dáng ngực. Các thợ may cắt eo áo cao lên để hở cạp quần. Gấu áo lúc này bởi vì hẹp nên được cắt thẳng ngang và may dài gần tới mắt cá chân. Nhiều phụ nữ miền Nam lúc đó còn sử dụng dây gai quấn quanh bụng và xiết bụng nhỏ lại để mặc áo dài chiết eo lưng ong.
Gần cuối thập kỷ 1960, phong trào Hippy với váy ngắn và quần loe trở nên rầm rộ khiến áo dài mini của phụ nữ trở thành loại trang phục thời thượng. Vạt áo được may hẹp và ngắn hơn, có khi chỉ đến đầu gối. Áo may rộng hơn, ban đầu có xếp li ở eo. Tuy nhiên các nhà thiết kế lúc đó thấy áo dài vạt ngắn có chiết li trông cũn cỡn và thiếu thẩm mỹ, cho nên một thời gian sau áo dài mini không được chiết eo nữa, nhưng vẫn giữ đường lượn theo cơ thể một cách tương đối. Cổ áo may thấp xuống còn 3cm, phần tay áo được may rộng ra và ngắn hơn so với trước kia. Đặc biệt, vai áo dài dành cho phụ nữ bắt đầu được cắt lối theo raglan để vai áo ôm hơn; vừa ít nhăn vừa đỡ tốn vải. Từ đây, tay áo dài được nối với thân chéo. Còn áo dài của đàn ông vẫn luôn giữ cách nối tay cổ điển để khiến vai áo vuông vức, tạo vẻ nam tính.
Nhìn chung, cho tới nay các nhà thiết kế luôn cố gắng để đổi mới phong cách áo dài. Tuy nhiên, vẻ đẹp ban đầu của chiếc áo dài vẫn được xem là đẹp nhất, giản dị, duyên dáng, quyến rũ mà tế nhị, mang vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam.